Bản tin tài chính FX168 (Hồng Kông) đưa tin "Tạp chí Phố Wall" của Hoa Kỳ đã đưa tin vào Chủ nhật (3 tháng 3) theo giờ địa phương rằng, vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, nền kinh tế Mỹ và toàn cầu đã trải qua một “cú sốc Trung Quốc”, khi việc nhập khẩu nhiều hàng hóa giá rẻ do Trung Quốc sản xuất giúp giữ lạm phát ở mức thấp nhưng phải trả giá bằng việc có ít việc làm trong ngành sản xuất địa phương hơn.
(Nguồn: "Wall Street Journal")
Khi chính phủ Trung Quốc tăng cường xuất khẩu để vực dậy tăng trưởng kinh tế, “phần tiếp theo” của “cú sốc Trung Quốc” có thể đang hình thành. Các nhà máy Trung Quốc sản xuất nhiều ô tô, máy móc và thiết bị điện tử tiêu dùng hơn mức nền kinh tế trong nước có thể hấp thụ. Được hỗ trợ bởi các khoản vay lãi suất thấp do nhà nước chỉ đạo, các công ty Trung Quốc đang cung cấp cho thị trường nước ngoài những sản phẩm mà họ không thể bán ở trong nước.
Một số nhà kinh tế tin rằng “cú sốc Trung Quốc” này sẽ khiến lạm phát giảm mạnh hơn lần đầu. Nền kinh tế Trung Quốc hiện đang chậm lại, vốn đã bùng nổ trong thời kỳ “cú sốc Trung Quốc” trước đó. Do đó, nhu cầu quặng sắt, than đá và các mặt hàng khác của Trung Quốc sẽ không bù đắp được tác động giảm phát của hàng hóa giá rẻ do Trung Quốc sản xuất.
中Quy mô kinh tế của đất nước cũng lớn hơn nhiều so với trước đây và chiếm tỷ trọng cao hơn trong ngành sản xuất của thế giới. Theo dữ liệu từ Ngân hàng Thế giới, sản lượng sản xuất của Trung Quốc sẽ chiếm 31% tổng sản lượng của thế giới vào năm 2022 và sẽ chiếm 14% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. Hai mươi năm trước, ngành sản xuất của Trung Quốc chiếm chưa đến 10% và xuất khẩu chiếm chưa đến 5%.
Đầu những năm 2000, tình trạng sản xuất thừa phần lớn đến từ Trung Quốc, trong khi các nhà máy ở nơi khác đều đóng cửa. Giờ đây, khi căng thẳng địa chính trị gia tăng, Hoa Kỳ và các nước khác đang đầu tư mạnh vào và bảo vệ các ngành công nghiệp của họ. Các công ty Trung Quốc như nhà sản xuất pin Contemporary Amperex Technology đang xây dựng nhà máy ở nước ngoài để giảm bớt sự phản đối đối với hàng nhập khẩu, mặc dù họ đã sản xuất phần lớn những thứ thế giới cần ở trong nước.
Kết quả có thể là một thế giới tràn ngập hàng hóa sản xuất nhưng thiếu khả năng chi tiêu để mua chúng - một nguyên nhân kinh điển khiến giá cả giảm.
Chiến lược gia Trung Quốc Thomas Gatley tại Gavekal Dragonomics, cho biết: “Cân bằng tác động của Trung Quốc đối với giá cả toàn cầu đang nghiêng rõ ràng hơn về phía giảm phát”.
Có lực lượng đối kháng. Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản không muốn lặp lại những gì đã xảy ra vào đầu thế kỷ này, khi hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc phải đóng cửa nhiều nhà máy của họ. Kết quả là, họ đã cung cấp hàng tỷ USD hỗ trợ cho các ngành công nghiệp được coi là chiến lược và áp đặt hoặc đe dọa áp thuế đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc. Dân số già đi và tình trạng thiếu lao động dai dẳng ở các nước phát triển có thể bù đắp thêm một số áp lực giảm phát mà Trung Quốc gây ra trong thời gian này.
Một “cú sốc Trung Quốc” khác
Giáo sư kinh tế David Autor tại Massachusetts Institute of Technology, cho biết: “Nó sẽ không phải là cú sốc tương tự đối với Trung Quốc.” Autor là một trong những tác giả của bài báo năm 2016 mô tả “cú sốc Trung Quốc” đầu tiên.
Autor cho biết các quốc gia hiện có “mối quan ngại đáng kể hơn”, bởi vì Trung Quốc đang cạnh tranh với các nền kinh tế tiên tiến trong các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao như ô tô, chip máy tính và máy móc phức tạp, những ngành được coi là cốt lõi để dẫn đầu về công nghệ.
“Cú sốc Trung Quốc” đầu tiên xảy ra sau hàng loạt cải cách tự do hóa của Trung Quốc vào những năm 1990 và việc nước này gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới ( WTO) vào năm 2001. Đối với người tiêu dùng Mỹ, điều này mang lại lợi ích đáng kể.
Một bài báo năm 2019 cho thấy rằng cứ tăng 1 điểm phần trăm trong thị phần hàng nhập khẩu của Trung Quốc, giá tiêu dùng của hàng hóa Mỹ sẽ giảm 2%, trong đó người có thu nhập thấp và trung bình được hưởng lợi nhiều nhất.
Nhưng “cú sốc Trung Quốc” lúc đó cũng gây áp lực lên các nhà sản xuất nội địa ở Mỹ. Năm 2016, Autor và các nhà kinh tế khác ước tính rằng từ năm 1999 đến năm 2011, hơn 2 triệu việc làm ở Mỹ đã bị mất do hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Các nhà sản xuất đồ nội thất, đồ chơi và quần áo sụp đổ trước sự cạnh tranh và công nhân ở các cộng đồng bị bỏ hoang phải vật lộn để tìm việc làm mới.
Tạp chí Phố Wall cho biết một loại "phần tiếp theo" nào đó dường như đang được tiến hành.
Nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 5,2% trong năm ngoái, mức tăng trưởng khiêm tốn so với tiêu chuẩn của nước này và dự kiến sẽ chậm lại hơn nữa do thị trường bất động sản tiếp tục sụt giảm đè nặng lên đầu tư và người tiêu dùng hạn chế chi tiêu. Công ty tư vấn Capital Economics tin rằng tốc độ tăng trưởng hàng năm sẽ chậm lại khoảng 2% vào năm 2030.
Bắc Kinh đang cố gắng thúc đẩy sự phục hồi kinh tế bằng cách đổ tiền vào các nhà máy, đặc biệt là trong lĩnh vực bán dẫn, hàng không vũ trụ, ô tô và thiết bị năng lượng tái tạo, đồng thời bán phần thặng dư thu được ra nước ngoài.
Tuy nhiên, nhu cầu yếu và dư thừa công suất khiến giá sản xuất của Trung Quốc giảm 16 tháng liên tiếp, dẫn đầu là hàng tiêu dùng và hàng hóa lâu bền, thực phẩm, kim loại và máy móc điện.
Tạp chí Phố Wall lưu ý rằng động lực chống lạm phát này đang được thể hiện trên khắp thế giới. Giá hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc vào Mỹ trong tháng 1 giảm 2,9% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi giá hàng hóa nhập khẩu từ Liên minh châu Âu, Nhật Bản và Mexico đều tăng.
Tuy nhiên, không giống như đầu thế kỷ 21, thế giới phương Tây hiện coi Trung Quốc là đối thủ kinh tế và đối thủ địa chính trị chính. Liên minh châu Âu đang xem xét liệu xe điện do Trung Quốc sản xuất có được trợ cấp không công bằng và có phải chịu thuế hoặc các hạn chế nhập khẩu khác hay không. Cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump, người đang tìm kiếm sự đề cử của Đảng Cộng hòa cho chức tổng thống vào tháng 11, đã đưa ra ý tưởng áp thuế từ 60% trở lên đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.
Bài báo của Wall Street Journal cho rằng chủ nghĩa bảo hộ này có thể chuyển một số tác động chống lạm phát sang các khu vực khác trên thế giới khi các nhà xuất khẩu Trung Quốc tìm kiếm thị trường mới ở các nước nghèo hơn. Các nền kinh tế này có thể chứng kiến các ngành công nghiệp non trẻ của mình bị thu hẹp trước sự cạnh tranh của Trung Quốc, như trường hợp của Hoa Kỳ trong những năm đầu thành lập.